Chủ Nhật, 13 tháng 3, 2016

Nguyên tắc khi chia tài sản của vợ chồng

Đây là một trong một vài nội dung đáng lưu ý của Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP (hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình số 52/2014/QH13) có hiệu lực kể từ ngày 1-3-2016.
Nếu không có văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng hay văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị tòa án nhân dân tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì TA áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Khi ấy, tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi tuy vậy có tính đến một vài yếu tố sau đây để xác minh tỉ lệ tài sản mà vợ chồng được chia khi chia tài sản khi ly hôn. Gồm:




1. Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng: là tình trạng về năng lực pháp luật, năng lực hành vi, sức khỏe, kinh tế, khả năng lao động tạo ra thu nhập sau khi ly hôn của vợ, chồng cũng như của những thành viên khác trong gia đình mà vợ chồng có quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình. Bên gặp khó khăn hơn sau khi li dị được chia phần tài sản nhiều hơn so với bên còn lại hay được ưu tiên nhận loại tài sản để bảo đảm duy trì, ổn định cuộc sống của họ tuy nhiên phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế của gia đình và của vợ, chồng;
2. Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển số tài sản chung: là sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, công việc gia đình và lao động của vợ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Người vợ hay chồng ở nhà chăm sóc con, gia đình mà không đi làm được tính là lao động có thu nhập tương đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Bên có công sức đóng góp nhiều hơn sẽ được chia nhiều hơn;
3. Bảo vệ lợi ích chính đáng của từng bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập: là việc chia tài sản chung của vợ chồng khi làm thu tuc ly hon phải bảo đảm cho vợ, chồng đang hoạt động nghề nghiệp được tiếp tục hành nghề; cho vợ, chồng đang hoạt động sản xuất, kinh doanh được tiếp tục được sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản chênh lệch. Việc bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và hoạt động nghề nghiệp không được ảnh hưởng tới điều kiện sống tối thiểu của vợ, chồng và con chưa thành niên, con đã thành niên mặc dù vậy mất năng lực hành vi dân sự;
4. Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng: là lỗi của vợ hay chồng vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của vợ chồng dẫn tới ly hôn.
Để được tư vấn cụ thể và chi tiết hơn bạn có thể liên hệ tới Hotline (043) 795 7776

Thứ Tư, 9 tháng 3, 2016

Tình trạng cô dấu Việt bỏ trốn khỏi xứ người

Hơn 10 cô dâu Việt bỏ trốn khỏi một làng ở Phúc Kiến, phía đông nam Trung Quốc, sau sáu tháng hoặc thậm chí vài ngày sống với chồng ở xứ người.
Tờ Nhân dân Nhật báo cho biết, phần lớn trong số hơn 10 người cô dâu Việt đã bỏ khỏi làng Nanan, tỉnh Phúc Kiến vào ngày 16/2. Hai cô dâu còn lại cũng biến mất chỉ một vài ngày sau đó. Vì vậy, cho đến nay tổng cộng 17 cô dâu Việt Nam trốn khỏi ngôi làng này.
Một số cô kết hôn được 6 tháng, trong khi những người khác chỉ ở làng này vài ngày.



Thông qua 1 nhóm môi giới hôn nhân, mỗi người đàn ông Trung Quốc phải trả 60.000 Nhân dân tệ (hơn 9.000 USD) để có vợ. Và không cặp nào làm thủ tục đăng ký kết hôn với người Trung Quốc.
Aaron, 28 tuổi, là người đầu tiên kết hôn với một phụ nữ Việt Nam. Anh cho biết, sáu tháng đầu của cuộc hôn nhân giống 1 giấc mơ. Người vợ của Aaron thích nghi nhanh với cuộc sống ở Trung Quốc và thậm chí tìm được việc trong một nhà máy. Tuy thế, vào 1 ngày, cô nói khát và muốn đi mua nước. Người phụ nữ trốn khỏi nhà và không bao giờ trở lại.
Một người đàn ông khác họ Peng, cưới 1 trong những cô gái Việt đã bỏ trốn cho biết, anh rất ngạc nhiên vì hành động của vợ mình. Sau khi vợ bỏ đi, anh Peng rất tức giận và thề đốt tất cả các vật dụng của cô ấy.
Đây không phải lần đầu tiên sự việc nhiều cô dâu Việt Nam bỏ trốn khỏi tỉnh Phúc Kiến. Theo Epoch Times, ngày 18/2, nhiều đàn ông ở Zhongxin sốc khi biết tin các cô vợ Việt của họ biến mất. Nhiều người đã lấy nhau được hơn một năm.
Đàn ông Trung Quốc đang ngày càng khó tìm vợ hơn vì chênh lệch quá lớn tỷ lệ nam/nữ, đặc biệt tại những khu vực nông thôn. Theo Aaron, kể từ thế hệ bà anh trở đi, trong làng, đàn ông đã luôn nhiều hơn phụ nữ, với tỷ lệ cứ 12 nam giới, chỉ có 2 đến 3 nữ.
Rất nhiều nam giới nước này chọn cách kết hôn với phụ nữ Việt Nam hay Lào bởi họ sẽ phải chi số tiền ít hơn so với khi lấy một cô vợ Trung Quốc. Tuy vậy, nhiều người dân Trung Quốc cho rằng các cuộc hôn nhân "ngoại" đang bị một số kẻ mai mối lợi dụng lừa đảo.

Thứ Ba, 8 tháng 3, 2016

Sẽ khó áp dụng hình phạt cho hành vi ngoại tình

(ĐSPL) – Theo bà Thúy, nếu hành vi mua bán dâm chưa thể xử phạt được thì xử phạt ngoại tình cũng sẽ rất khó.
Mới đây, dư luận quan tâm nhiều tới quy định “ngoại tình” dẫn tới ly hôn có thể bị phạt tù. Khá nhiều quan điểm được đưa ra về tính thực tế của quy định này.
Căn cứ vào đó, người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hay người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hay chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong một vài trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ 3 tháng tới một năm: Khiến cho quan hệ hôn nhân của 1 hay hai bên dẫn tới ly hôn; Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. Phạm tội thuộc 1 trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 3 năm: Khiến cho vợ, chồng hay con của 1 trong hai bên tự sát; Đã có quyết định của Tòa hủy việc làm thủ tục đăng ký kết hôn hay buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ 1 vợ, 1 chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.
Về vấn đề này bà Nguyễn Thị Kim Thúy - Phó chủ tịch hội phụ nữ Việt Nam chia sẻ, vấn đề đặt ra là việc ngoại tình hiện nay như thế nào và mức độ phổ biến ở mức độ nào?. Việc thực thi có được hay không phụ thuộc vào khá nhiều yếu tố, không phải nói phạt tù là phạt tù được ngay.
Cũng theo bà Thúy, giữa chuyện ngoại tình và chuyện mua bán dâm liệu rằng có tách bạch được không? Người đi mua dâm đã bao giờ bị phạt tù được hay chưa?. Vì ngoại tình nhiều khi chỉ là các mối tình nhanh chóng trong nhà nghỉ. Chính vì thế, nếu bán dâm chưa thể xử phạt được thì xử phạt ngoại tình cũng sẽ rất khó. So sánh hình phạt giữa mua bán dâm và hình phạt về ngoại tình chúng ta sẽ thấy sự liên quan.
“Để chứng minh vì ngoại tình dẫn đến ly hôn khá khó. Không ai muốn thừa nhận vì ngoại tình dẫn tới ly hôn, người ta sẽ nói đến lý do vì không hợp nhau, không cùng quan điểm… . Lúc đó, trong suy nghĩ của họ ngoại tình chỉ là 1 yếu tố trong chuỗi một số nguyên nhân dẫn đến ly hôn”, bà Thúy phân tích.
>>> Tư vấn: Chia tài sản khi ly hôn

Ngoài ra, nhiều người quan niệm đơn giản, “ngoại tình là vi phạm pháp luật” chỉ bằng niềm tin của mình, biết được chồng hoặc vợ của mình đang ngoại tình với người khác rồi từ đó kết luận đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Trong khi đó quy định này ngoài xác định hậu quả nghiêm trọng còn là xác định hành vi thế nào là “chung sống như vợ, chồng” chứ không phải là hành vi “ngoại tình”. Chính vì thế, dù hậu quả nghiêm trọng có xảy ra thì người vi phạm cũng tìm cách giải thích rằng, họ chỉ quan hệ... “trên mức tình cảm” chứ không thừa nhận việc họ lên giường thường xuyên với tình nhân hay thường xuyên với người bán dâm. Có rất nhiều trường hợp ngoại tình theo dạng say nắng 1 lần xong thôi dù vậy lại không ly hôn… Do đó rất khó để quy kết.
Cũng theo bà Thúy, ở Việt Nam, ngoại tình dẫn tới ly hôn mà không kèm theo 1 tội phạm khác (đánh ghen, đánh đập…) thì chưa thấy trường hợp nào dẫn tới hậu quả nghiêm trọng và phải phạt tù.
Đồng quan điểm trên, thì tình trạng ngoại tình và nạn mại dâm là một vài hiện tượng sẽ luôn tồn tại trong xã hội. Đó là một số hiện tượng tình dục, nhu cầu tình dục vượt ra ngoài phạm vi khuổn khổ quan hệ hôn nhân một vợ, một chồng.
Dù vậyTuy thế}, không phải mọi trường hợp ngoại tình đều là xấu. Có một vài cuộc hôn nhân rạn nứt, 2 vợ chồng ly hôn dù thế vì lý do nào đó chưa hoàn tất thủ tục ly hôn thì việc tìm được một người có thể chia sẻ, đồng cảm… trong khi chờ đợi ly hôn thì hiện tượng "ngoại tình" này không đáng lên án, đây là 1 bước đệm trên con đường tìm tới 1 hạnh phúc mới. Như vậy, “nếu mọi hành vi "ngoại tình" đều bị xử lý bằng pháp luật thì e rằng không ổn.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, chỉ một số hành vi vi phạm luật hôn nhân và gia đình bị xử lý hành chính hay xử lý hình sự (có chế tài), trong đó có hành vi vi phạm chế độ hôn nhân 1 vợ một chồng. Đồng thời, vi phạm chế độ hôn nhân 1 vợ 1 chồng cũng chỉ là một dạng biểu hiện của hành vi ngoại tình - Ngoại tình công khai. Còn đối với hành vi ngoại tình "dấm dúi", "thậm thụt" - Không công khai thì không bị xử lý bằng luật pháp, quan hệ ngoại tình này sẽ do đạo đức xã hội điều chỉnh, can thiệp.

Chủ Nhật, 6 tháng 3, 2016

Một số điểm mới của luật hôn nhân gia đình cần biết

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khóa XIII, kỳ họp lần thứ 7 thông qua ngày 19 tháng 06 năm 2014, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2015. có một số quy định mới và có một vài sửa đổi, bổ sung so với Luật Hôn nhân và gia đình 2000. Cụ thể là:
Về độ tuổi đăng ký kết hôn .
Theo khoản 1, Điều 8 thì đã nâng độ tuổi kết hôn của nữ thành đủ 18 tuổi và đủ 20 tuổi với với nam (Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định độ tuổi kết hôn với là nữ từ 18 tuổi, nam từ 20 tuổi).
Về hôn nhân cùng giới: Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định cấm đăng ký kết hôn đồng giới; Luật Hôn nhân và gia đình 2014 bỏ quy định “cấm kết hôn giữa một số người cùng giới tính” thay thế bằng việc Nhà nước “không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính” (khoản 2 Điều 8). Nên, những người cùng giới tính vẫn có thể kết hôn tuy nhiên sẽ không được pháp luật bảo vệ khi có phát sinh tranh chấp. Có thể nói rằng, đây là sự nhìn nhận mới về hôn nhân giữa một số người cùng giới tính của Nhà nước ta trong thực trạng xã hội hiện nay.


Về áp dụng tập quán: Điều 7 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định “Trong trường hợp luật pháp không quy định và các bên không có thỏa thuận thì tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của từng dân tộc, không trái với nguyên tắc quy định tại Điều 2 và không vi phạm điều cấm của Luật này được áp dụng”, Chính vì vậy, luật đã quy định rõ tập quán chỉ được áp dụng trong trường hợp luật pháp không có quy định và các bên không có thỏa thuận tuy nhiên không được trái với một vài nguyên tắc, vi phạm những điều cấm của Luật. (Điều 6 Luật hôn nhân và gia đình 2000 quy định: "Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, một số phong tục, tập quán thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc mà không trái với một vài nguyên tắc quy định trong Luật này thì được tôn trọng và phát huy" .

Về luật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo:
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã chính thức thừa nhận, cho phép mang thai hộ với mục đích nhân đạo được quy định từ Điều 93 tới Điều 98. Một số chủ thể tham gia phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và được lập thành văn bản. Vợ chồng có quyền nhờ người mang thai hộ khi có đủ một vài điều kiện: Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; vợ chồng đang không có con chung; đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý. Đây là quy định mới của Luật Hôn nhân gia đình 2014, với quy định này đã phản ánh được thực trạng hiện tại, và đáp ứng với tình hình phát triển thực tế của một vài mối quan hệ trong hôn nhân và gia đình.

Về chế độ tài sản của vợ chồng: Được quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình 2014 (từ Điều 47, 48, 49, 50 và Điều 59). ngoài chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định, Luật còn quy định về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận. Việc thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hay chứng thực và nội dung thỏa thuận cũng có thể thay đổi sau khi đăng ký kết hôn. Luật Hôn nhân và gia đình 2000 quy định chưa rõ ràng về chế độ sở hữu của vợ chồng, thiếu cơ chế công khai minh bạch về tài sản chung, tài sản riêng, chủ yếu đề cập đến vấn đề đất đai, còn các tài sản khác ví dụ như chứng khoán, tài sản trong doanh nghiệp thì chưa được đề cập tới, gây khó khăn trong quá trình giải quyết tranh chấp. Nên, việc thỏa thuận được lập bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực trước khi kết hôn sẽ làm giảm sự tranh chấp chia tài sản sau ly hôn của các cặp vợ chồng khi làm thủ tục ly hôn, tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan chức năng trong quá trình giải quyết vụ việc hôn nhân, gia đình.
Bên cạnh đó, luật quy định tài sản chung của vợ chồng là tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng, một số thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng, cho chung và một số tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Đối với quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được sau khi đăng ký kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trong trừ trường hợp vợ, chồng được thừa kế riêng, được tặng, cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nhiều nghĩa vụ chung của vợ chồng. Luật cũng quy định rõ, trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của từng bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung. Đặc biệt, điểm mới trong luật sửa đổi lần này là một số quy định về giải quyết quan hệ tài sản phải đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con, quy định rõ công việc nội trợ và nhiều công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được xem như lao động có thu nhập.
Để được hướng dẫn hãy liên lạc tới Hotline 0903 481 181

Thứ Năm, 3 tháng 3, 2016

Dịch vụ tư vấn chia tài sản khi ly hôn

Bất kể là vụ việc dân sự (đơn phương ly hôn) hay vụ án dân sự (thuận tình ly hôn) thì vấn đề chia tài sản cũng luôn được đặt ra. Cùng với 3 vấn đề khác là quan hệ pháp lý về hôn nhân, quan hệ pháp lý về nuôi con và quan hệ pháp lý về cấp dưỡng thì quan hệ pháp lý về tài sản là một trong 4 quan hệ pháp lý luôn phức tạp nhất.

chia tài sản sau khi li hôn
Xét tính chất, mức độ phức tạp trường hợp trường hợp ly dị thuận tình có phần nhẹ hơn vì hai bên thỏa thuận về việc chia tài sản vợ chồng trước, trong hoặc sau khi li hôn một cách hòa bình. Mặc dù vậy việc phân định đâu là tài sản chung (bao gồm tài sản có và tài sản nợ), đâu là tài sản riêng và tài sản chung thì chia như thế nào cho đúng cả về pháp lý lẫn đạo lý, đảm bảo công bằng cho từng bên cũng còn nhiều điều phải xem xét.
Trường hợp ly hôn đơn phương thì vấn đề chia tài sản khi ly dị là 1 vấn đề “nóng bỏng nhất”. Vì 1 nguyên tắc của tranh chấp là hai bên đều muốn giành phần hơn về mình, các đương sự không phải ai cũng hiểu rằng tất cả tài sản “phát sinh” trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung khi 1 trong các bên có yêu cầu chia bất kể là khi ly dị hay không ly dị hay sau khi li dị thì về nguyên tắc tài sản đó sẽ được chia đôi “của chồng công vợ”. Mặc dù thế khi xét xử tòa án nhân dân phải căn cứ trên công sức đóng góp của từng bên và phải tính đến quyền ưu tiên đối với phụ nữ, trẻ em. Xuất phát từ “lòng tham”, sự “hơn thua” của các đương sự dẫn đến các hành vi phức tạp như “tẩu tán tài sản chung”; xuất hiện người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan một cách quyết liệt, thậm chí để lại những hậu quả vô cùng đáng tiếc đó là nguyên nhân dẫn đến bất công và lý giải vì sao ly dị không phải là kết thúc.
Để hạn chế một vài sai lầm đáng tiếc không thể khắc phục, các luật sư Công ty luật Oceanlaw đã tư vấn và trợ giúp pháp lý cho hàng vạn khách hàng mỗi năm mang lại sự bình an và đảm bảo công bằng cho khách hàng của mình trong nhiều năm qua. Quá trình điều tra, truy tìm, xác minh khi phân chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, khi ly hôn hoặc sau khily dị đều được các luật sư, cộng sự, chuyên gia pháp lý và những đối tác chiến lược khác của Luật Thái An am tường về lĩnh vực Hôn nhân gia đình giải quyết thấu tình, đạt lý không chỉ mang lại sự hài lòng cho chính khách hàng của mình.
Hãy liên hệ tới hotline 0965 15 13 11 để được tư vấn chia tài sản khi ly hôn trực tiếp và miễn phí.

Thứ Tư, 2 tháng 3, 2016

Làm thủ tục ly hôn có được vắng mặt không?

Em gái tôi và chồng hiện tại đang lao động ở Đài Loan, mối quan hệ của 2 người đã xảy ra mâu thuẫn nghiêm trọng và đồng ý li dị. Cả  2 cùng đồng ý ký vào đơn xin ly hôn. Tháng 6 này em gái tôi về Việt Nam để làm thủ tục ly hôn, dù vậy chồng của em gái tôi chưa hết thời gian lao động nên chưa thể về Việt Nam để có mặt tại tòa để làm thủ tục li dị. Tôi muốn hỏi khi cả  2 cùng nhất trí ký đơn xin ly dị, mà 1 trong  hai người không thể có mặt ở Việt Nam thì thủ tục ly dị như thế nào? Có giống với trường hợp xử đơn phương ly hôn hay không? và cần phải có đơn xin xử ly hôn vắng mặt của chồng em gái tôi hay không ? Tôi hi vọng sớm nhận được thư trả lời của luật sư bởi gia đình tôi đang rất lo lắng không biết thủ tục ly hôn cần làm như thế nào trong trường hợp như vậy. Tôi và gia đình xin chân thành cảm ơn luật sư!

Trả lời:
Theo Khoản 1 Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định về quyền yêu cầu tòa giải quyết việc li hôn: Vợ, chồng hay cả  hai người có quyền yêu cầu tòa án nhân dân giải quyết việc ly hôn.
Do đó, theo quy định nêu trên thì cả  2 vợ chồng hay một bên (vợ hay chồng) đều có quyền làm đơn yêu cầu tòa giải quyết việc ly hôn. Nếu xét thấy mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được.
Trường hợp thuận tình li hôn: Theo Điều 55 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định: Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu li hôn, khi xét thấy  hai bên thật sự tự nguyện li dị và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì tòa án nhân dân công nhận thuận tình li hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận mặc dù thế không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì TA giải quyết việc ly hôn”.
Chính vì vậy, theo quy định nêu trên thì trường hợp thuận tình li hôn phải có mặt bạn và chồng bạn để tòa an thực hiện thủ tục hòa giải theo quy định trước khi quyết định công nhận sự thuận tình li hôn. 
Trường hợp ly hôn theo yêu cầu của một bên ( thủ tục ly hôn đơn phương ): Trường hợp cả  2 bên đã ký vào đơn xin li hôn, tuy nhiên một bên không thể có mặt tại Việt Nam để giải quyết thì em của bạn cũng có thể chủ động làm thủ tục xin li dị tại TAND (em của bạn là nguyên đơn), lúc này phía bị đơn không nhất thiết phải có mặt ở Việt Nam để giải quyết việc ly dị. Phía bị đơn có thể làm đơn xin li hôn vắng mặt gửi tòa có thẩm quyền yêu cầu giải quyết. Đơn xin li hôn vắng mặt phải có các nội dung: bị đơn đồng ý ly dị với nguyên đơn và nói rõ nguyện vọng về con chung, tài sản chung (nếu có); Nói rõ lý do vắng mặt và yêu cầu tòa án nhân dân Việt Nam xử vắng mặt. Cam kết sẽ không tranh chấp hoặc khiếu nại gì về sau.
Đơn xin ly hôn vắng mặt mà bị đơn gửi cho tòa phải được chứng thực chữ ký tại cơ quan có thẩm quyền nước sở tại và phải được hợp pháp hóa lãnh sự theo đúng quy định pháp luật hiện hành.  
Thủ tục xin ly hôn gồm:
 Đơn khởi kiện xin ly hôn hay đơn xin thuận tình ly hôn (theo mẫu);
 Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn;
 Bản sao có chứng thực các giấy tờ như CMND, hộ khẩu, Giấy khai sinh của con và các giấy tờ về quyền tài sản (nếu có)…
Nếu có bất kỳ khó khăn hay thắc mắc nào bạn có thể liên hệ với chúng tôi qua hotline: 0903 481 181

Thứ Ba, 1 tháng 3, 2016

Quy định mới về hành vi ngoại tình

Chính thức phạt tù người không chung thủy tính từ tháng 7/2016
Vấn đề này được quy định trong Điều 182 Bộ luật hình sự 2015 và chính thức có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2016


Căn cứ vào đó, ở Điều 182 về Tội vi phạm chế độ 1 vợ, một chồng quy định rõ:
– Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà đăng ký kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc 1 trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ tới 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng tới 1 năm:
+ Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
+ Làm cho quan hệ hôn nhân của một hay 2 bên dẫn tới làm thủ tục ly hôn .
– Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng tới 03 năm:
+ Làm cho vợ, chồng hay con của 1 trong hai bên tự sát.
+ Đã có quyết định của Tòa án nhân dân hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.
So với Bộ luật hình sự 1999 thì Bộ luật này đã quy định rõ ràng về  “Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng”.
Điều 147. Tội vi phạm chế độ 1 vợ, một chồng – Bộ luật hình sự 1999.
1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hay chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ tới 1 năm hay phạt tù từ ba tháng tới 1 năm.
2. Phạm tội trong trường hợp đã có quyết định của TA tiêu huỷ việc kết hôn hay buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì bị phạt tù từ 6 tháng đến ba năm.