Theo kết quả của một số báo cáo nghiên cứu “Thực trạng bảo đảm quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ sau ly hôn” của Văn phòng liên minh đất đai (LANDA) công bố ngày 12/10,bạo lực gia đình và tâm lý cam chịu của phụ nữ trước các bất công trong hôn nhân và sau khi ly hôn được nói đến nhiều, trong đó vấn đề sau ly hôn nhiều phụ nữ lại phải đối mặt với cuộc sống không nhà cửa, không tài sản.
Phụ nữ thiếu quyền tài sản của mình sau khi ly hôn
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) chung ngoài mục đích giảm thiểu sự bất bình đẳng giới về những vấn đề pháp lý liên quan đến đất đai, còn giúp bảo vệ gia đình khỏi một số hành động đơn phương của chồng và bảo vệ quyền lợi của phụ nữ trong những trường hợp ly hôn hay trong những tranh chấp về đất đai.
Theo nghiên cứu được LANDA và những tổ chức thành viên tiến hành thực hiện từ tháng 7- 8/2015 ở tỉnh Quảng Ngãi và Long An, với 143 phụ nữ sau khi ly hôn tham gia khảo sát cho thấy sau khi ly hôn, phụ nữ không có nơi cư trú ổn định, phải về sống với cha mẹ đẻ, ở nhờ nhà người thân hay đi làm xa quê. Khảo sát đã cho biết, hiện tỷ lệ phụ nữ đứng tên chủ quyền đất ở và những loại đất khác thấp hơn so với nam giới, ở nông thôn thấp hơn ở đô thị.
Chủ Nhật, 18 tháng 10, 2015
Phụ nữ thụ động trong quyền chia tài sản
Tỷ lệ hộ gia đình ở đô thị thực hiện việc đưa tên cả 2 vợ chồng
vào GCNQSDĐ cao hơn hẳn những địa bàn nông thôn. Và dù nguồn gốc tài sản thường
là bên vợ hoặc bên chồng thì người đứng tên trên giấy tờ thường là người chồng.
Đối với một số phụ nữ làm ruộng là chủ yếu thì họ ít quan tâm hiểu về thủ tục đất
đai, giấy tờ nên thường người chồng “đứng tên bởi vợ không biết”.
Người phụ nữ thường thiếu hiểu biết về quyền tài sản cũng ví
dụ thiếu sự hỗ trợ tư pháp đầy đủ về hôn nhân gia đình, về quyền tài sản, trong
khi đó, những tài sản chung của Vợ chồng là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở, chủ yếu có liên quan đến bố mẹ chồng hoặc gia đình bên chồng, nhất là vùng
thon quê. Ông Phạm Hải Bình, trưởng nhóm nghiên cứu cho hay: “Trong tình trạng này,
việc để những cặp Vợ chồng tự thỏa thuận về tài sản trong ly hôn làm tăng các bất
lợi thuộc về phía phụ nữ, khiến họ mất đi các cơ hội được tòa án và hai bên xác
minh, kiểm kê và chia cho họ phần tài sản chính đáng của mình, trong đó có nhà ở
và đất sản xuất, đẩy họ ra khỏi cộng đồng và phải đối mặt với rất nhiều rủi ro trong cuộc sống tiếp theo”.
Để đảm bảo quyền tài sản nhà và đất cho phụ nữ sau khi ly
hôn, trên thực tiễn, LANDA đề xuất những cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu,
bổ sung một số quy định đặc thù có liên quan đến việc bảo vệ những quyền, lợi
ích hợp pháp của phụ nữ trong tố tụng nói chung và trong thi hành án dân sự nói
riêng.
Phụ nữ thực hiện quyền tiếp cận đất đai là tự bảo vệ chính mình
Cách đây không lâu, 1 nghiên cứu về vấn đề trên do Chương
trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) tài trợ đã được công bố để lấy ý kiến
của những chuyên gia trong ngành này. Theo khảo sát của nhóm nghiên cứu, thì tỷ
lệ người đứng tên trên GCNQSDĐ: 44% là chồng, 22% là 2 vợ chồng, 19,7% là vợ,
7,4% là người khác và 6,9% là bố mẹ.
Một vài chuyên gia cho rằng, luật đã quy định 2 vợ chồng đứng
tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc nhà và nếu chỉ có 1 người đứng
tên thì những giao dịch trên thực tế đều có chữ ký của người còn lại. Mặc dù vậy
tình trạng đứng tên 1 bên trên giấy tờ cũng ví dujnhuw giao dịch về đất, nhà vẫn phổ biến, nhất là ở những
vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa đã dẫn đến sự bất bình đẳng về quyền tiếp cận
đất đai của phụ nữ so với nam giới.
Hậu quả là người phụ nữ dễ mất quyền với đất đai trong tất cả
những trường hợp, nhất là khi vợ chồng ly hôn hay góa bụa. Đấy là chưa kể tới
khó khăn của phụ nữ trong những trường hợp
cần vay vốn tín dụng của Nhà nước khi chồng ốm đau hoặc được quyền chủ động trồng
cây gì, gieo hạt gì đạt năng suất cao...
Tuy thế, những hội thảo về vấn đề giới, một số chuyên gia
cũng chỉ ra rằng tình trạng bạo hành gia đình nhằm vào phụ nữ còn rất cao; và 1
trong các nguyên nhân chủ yếu khiến phụ nữ dễ rơi vào tình huống dễ bị tổn
thương là sự lệ thuộc, trong đó sự lệ thuộc vào kinh tế, quyền tài sản được nhắc
đến như là 1 trong các nguyên nhân chính. Khi người phụ nữ kết hôn, về gia đình
chồng sinh sống, đóng góp nhiều công sức xây dựng gia đình; tuy vậy khi mục
đích hôn nhân không đạt được, người phụ nữ bắt buộc phải đứng trước sự lựa chọn: bế con đi tay trắng, hoặc tiếp tục ở lại
trong cuộc hôn nhân không hạnh phúc ấy. Một số chuyên gia chỉ rõ, trường hợp của
chị Lê Thị Lý bị chồng là Nguyễn Tiến Thịnh bạo hành tại Vĩnh Phúc ồn ào mấy năm trước là 1 câu chuyện điển hình.
Hơn nữa, cho dù quyền bình đẳng của phụ nữ đã được thể chế
hóa trong Hiến pháp từ năm 1945, được chi tiết hóa trong những luật dân sự và một
số bộ luật liên quan đến tài sản khác nhau… Việt Nam cũng đã cam kết thực thi các
công ước quốc tế có liên quan đến quyền bình đẳng của nam và nữ.
Tuy thế, ở nhiều nơi, bởi nhiều nguyên nhân: tập tục văn
hóa, nhận thức hạn chế của chị em phụ nữ về quyền của mình, cũng như trách nhiệm
thực thi của những Cơ quan quản lý liên quan về vấn đề này chưa cao, dẫn tới
tình trạng ở nhiều nơi GCNQSDĐ hiện vẫn còn chưa được ghi cả tên Vợ và tên chồng.
Điều này dẫn đến việc thực hiện chính sách pháp luật không đầy đủ, tiếp tục đẩy
phụ nữ vào trạng thái dễ tổn thương, cùng vô vàn hệ lụy khác dẫn tới vòng luẩn
quẩn về hôn nhân và chất lượng sống không giải quyết được.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét